Thứ Tư, 5 tháng 7, 2017

Xin nghỉ việc chỉ báo trước 3 tuần, công ty có thể kỷ luật được không?

Hỏi: Tôi xin hỏi một vấn đề như sau : Công ty chúng tôi có một nhân viên gửi thư xin nghỉ việc vào ngày 26/3/2017. Theo qui định thì đến ngày 28/4/2017 thì mới được nghỉ, nhưng họ lại định nghỉ từ ngày 21/4/2017. Vậy công ty chúng tôi có thể kỷ luật nhân viên này như thế nào? Tôi xin cảm ơn. (Vu Anh D.)

Người lao động có trách nhiệm báo trước khi có ý định nghỉ việc (ảnh minh hoạ)


Luật sư Trần Hồng Phong trả lời:

Tình huống và câu hỏi của bạn khá giống nhiều câu hỏi chúng tôi đã trả lời trên log này. Bạn nên tham khảo thêm.

Theo quy định tại Điều 37 Bộ luật lao động năm 2012, khi muốn nghỉ việc (đơn phương chấm dứt HĐLĐ), người lao động phải có lý do chính đáng và có nghĩa vụ phải báo trước 30 ngày (đối với loại HĐLĐ xác định thời hạn) cho người sử dụng lao động. Ngược lại, công ty có quyền yêu cầu người lao động phải tiếp tục làm việc đủ 30 ngày kể từ ngày có đơn xin nghỉ. 

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là giữa hai bên không thể có sự thỏa thuận khác – chẳng hạn như có thể cho nghỉ ngay, nghỉ sau 1 tuần hay sau 3 tuần …vv. Cũng như cũng không thể bắt buộc NLĐ phải tuyệt đối chấp hành. (Nhưng công ty có quyền cắt quyền lợi, yêu cầu bồi thường nếu NLĐ vi phạm quy định về thời gian báo trước - theo quy định tại Điều 43 Bộ luật lao động 2012).

Nói chung, sau khi nhận được đơn xin nghỉ việc của người lao động, công ty phải có trả lời chính thức và có hướng giải quyết sao cho ổn thoả. Như đã nói, công ty có quyền đề nghị người lao động làm việc hết thời hạn báo trước 30 ngày, hoặc thậm chí có thể động viên hay "năn nỉ" người lao động làm thêm nhiều hơn 30 ngày. Tinh thần là sao cho hai bên cảm thấy vui vẻ, ổn thỏa là tốt nhất.

Trong sự việc của công ty bạn, người nhân viên thực chất chưa nghỉ việc mà mới chỉ “đề nghị” xin nghỉ từ ngày 21/4/2017 (tức khoảng 3 tuần thay vì 30 ngày). Trước đề nghị như vậy, công ty có quyền đồng ý hoặc không đồng ý. Nếu không đồng ý thì cần có văn bản, nêu rõ “yêu cầu NLĐ làm việc tới ngày 28/4/2017".

Đồng thời bất luận thực tế sẽ xảy ra thế nào, thì lời “đề nghị” của NLĐ và cả hành vi nghỉ trước thời hạn báo trước - không phải là hành vi vi phạm kỷ luật lao động - mà là thực hiện quyền của mình - nên công ty không thể xử lý kỷ luật. Và tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa: nếu cuối cùng NLĐ vẫn cứ vi phạm thời hạn báo trước, tức là nghỉ sau 3 tuần,  thì công ty có quyền xử lý  theo quy định tại Điều 43 Bộ luật lao động (2012).  (Xem điều luật bên dưới).

.....

Quy định tại Bộ luật lao động (năm 2012):

Điều 37. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động

1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:

a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;

d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;
đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;

e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;

g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.

2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:

a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;

b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;

c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.

3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.

Điều 43. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.


3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.


Quý vị hãy gửi câu hỏi đến email ecolaw2@gmail.com - để được luật sư tư vấn (hoàn toàn miễn phí). Nội dung và câu hỏi gửi đến càng chi tiết, đầy đủ, thì nội dung trả lời sẽ càng chính xác, hiệu quả.  Các câu hỏi - đáp (được mã hoá tên, địa chỉ để bảo mật) sẽ được đăng trên blog này để mọi người cùng tham khảo, phổ biến pháp luật.


Câu lạc bộ Giám đốc nhân sự blog - địa chỉ tin cậy của mọi người

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét