Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2024

Những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án


Toà án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết hầu hết các loại tranh chấp về lao động (ảnh minh hoạ)

Ls. Trần Hồng Phong giới thiệu

Tranh chấp về lao động là những tranh chấp giữa NLĐ và NSDLĐ, liên quan đến những vấn đề thuộc pháp luật lao động như: Về xử lý kỷ luật lao động, về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động; về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp ... Tranh chấp lao động được chia thành 2 loại: Tranh chấp lao động cá nhân và Tranh chấp lao động tập thể. Về nguyên tắc, tranh chấp lao động được giải quyết thông qua hoà giải, nếu không hoà giải được thì đưa đến Toà án giải quyết. Vậy cụ thể những tranh chấp lao động nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án?

Tranh chấp lao động là gì?

Điều 179 Bộ luật lao động 2019 quy định về tranh chấp lao động là: "tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, lợi ích phát sinh giữa các bên trong quá trình xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ lao động; tranh chấp giữa các tổ chức đại diện người lao động với nhau; tranh chấp phát sinh từ quan hệ có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động". 

Các loại tranh chấp lao động bao gồm:

a) Tranh chấp lao động cá nhân: giữa người lao động với người sử dụng lao động; giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; giữa người lao động thuê lại với người sử dụng lao động thuê lại;

b) Tranh chấp lao động tập thể: về quyền hoặc về lợi ích giữa một hay nhiều tổ chức đại diện người lao động với người sử dụng lao động hoặc một hay nhiều tổ chức của người sử dụng lao động.

Thẩm quyền và trình tự giải quyết tranh chấp lao động 

Đối với từng loại tranh chấp lao động, sẽ có thủ tục, trình tự giải quyết khác nhau. Tuy nhiên cơ bản, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bao gồm:

1. Hòa giải viên lao động;

2. Hội đồng trọng tài lao động;

3. Tòa án nhân dân.

* Đối với tranh chấp lao động cá nhân:

Trước khi đưa ra Toà án giải quyết, các bên phải tiến hành thủ tục hoà giải. Nếu các bên không đạt được hoà giải (do Hoà giải viên lao động hoặc Hội đồng trọng tài lao động tiến hành), thì vụ việc sẽ được đưa đến Toà án để giải quyết theo trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự.

Theo quy định tại Điều 188 BLLĐ 2019, các tranh chấp lao động sau đây không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải:

a) Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;

b) Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;

c) Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;

d) Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế, về bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về việc làm, về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động;

đ) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;

e) Giữa người lao động thuê lại với người sử dụng lao động thuê lại.

Ví dụ: Anh A bị công ty B sa thải, và anh cho rằng công ty đã sa thải anh trái quy định của pháp luật. Như vậy, giữa anh A và công ty B đã phát sinh tranh chấp lao động. Trong trường hợp này, vì không thuộc trường hợp bắt buộc phải thông qua thủ tục hoà giải, nên anh A có quyền nộp đơn khởi kiện công ty A ra Toà án ngay, mà không cần khiếu nại đến Trọng tài lao động.

Nếu tranh chấp lao động thuộc trường hợp BẮT BUỘC PHẢI THÔNG QUA THỦ TỤC HOÀ GIẢI (tức là không thuộc những trường hợp liệt kê ở trên), thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu hoà giải, hòa giải viên lao động phải kết thúc việc hòa giải.

Trong trường hợp hoà giải không thành hoặc một trong hai bên không thực hiện các thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành hoặc hết thời hạn giải quyết mà hoà giải viên lao động không tiến hành hoà giải thì mỗi bên tranh chấp có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.

Lưu ý: Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân 6 tháng - 1 năm:

Theo quy định tại Điều 190 BLLĐ (2019), thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân được quy định như sau:

1. Thời hiệu yêu cầu hòa giải viên lao động thực hiện hòa giải tranh chấp lao động cá nhân là 06 tháng kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.

2. Thời hiệu yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là 09 tháng kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.

3. Thời hiệu yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là 01 năm kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.

4. Trường hợp người yêu cầu chứng minh được vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan hoặc lý do khác theo quy định của pháp luật mà không thể yêu cầu đúng thời hạn quy định tại Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan hoặc lý do đó không tính vào thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân.

Nói một cách đơn giản, là nếu hết thời gian trên (thời hiệu), thì NLĐ sẽ MẤT QUYỀN yêu cầu hoà giải hoặc khởi kiện ra Toà án.

Ví dụ: Anh A bị công ty B sa thải ngày 1/1/2024. Như vậy, nếu anh A không đồng ý và muốn kiện công ty B, yêu cầu thu hồi quyết định sa thải, thì anh phải khởi kiện ra Toà án trước khi kết thúc năm 2024. Nếu qua năm 2025, anh A sẽ không còn quyền khởi kiện nữa.

* Đối với tranh chấp lao động tập thể về quyền:

Tranh chấp lao động tập thể về quyền phải được giải quyết thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết.

Trong trường hợp hòa giải không thành hoặc hết thời hạn hòa giải mà hòa giải viên lao động không tiến hành hòa giải thì các bên tranh chấp có quyền lựa chọn một trong các phương thức sau để giải quyết tranh chấp:

a) Yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết;

b) Yêu cầu Tòa án giải quyết.

Những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

Điều 32 Bộ luật tố tụng dân sự (năm 2015) quy định về những tranh chấp lao động và/hoặc yêu cầu về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. 

Cụ thể, những tranh chấp lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gồm:

1. Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động mà hòa giải thành nhưng các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, hòa giải không thành hoặc hết thời hạn hòa giải theo quy định của pháp luật về lao động mà hòa giải viên lao động không tiến hành hòa giải, trừ các tranh chấp lao động sau đây không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải:

a) Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;

b) Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;

c) Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;

d) Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế, về bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về việc làm, về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động;

đ) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;

e) Giữa người lao động thuê lại với người sử dụng lao động thuê lại.

1a. Tranh chấp lao động cá nhân mà hai bên thỏa thuận lựa chọn Hội đồng trọng tài lao động giải quyết nhưng hết thời hạn theo quy định của pháp luật về lao động mà Ban trọng tài lao động không được thành lập, Ban trọng tài lao động không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc một trong các bên không thi hành quyết định của Ban trọng tài lao động thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

1b. Tranh chấp lao động tập thể về quyền theo quy định của pháp luật về lao động đã qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động mà hòa giải không thành, hết thời hạn hòa giải theo quy định của pháp luật về lao động mà hòa giải viên lao động không tiến hành hòa giải hoặc một trong các bên không thực hiện biên bản hòa giải thành thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

1c. Tranh chấp lao động tập thể về quyền mà hai bên thỏa thuận lựa chọn Hội đồng trọng tài lao động giải quyết nhưng hết thời hạn theo quy định của pháp luật về lao động mà Ban trọng tài lao động không được thành lập, Ban trọng tài lao động không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc một trong các bên không thi hành quyết định của Ban trọng tài lao động thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.”;

3. Tranh chấp liên quan đến lao động bao gồm:

a) Tranh chấp về học nghề, tập nghề;

b) Tranh chấp về cho thuê lại lao động;

c) Tranh chấp về quyền công đoàn, kinh phí công đoàn;

d) Tranh chấp về an toàn lao động, vệ sinh lao động.

4. Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do đình công bất hợp pháp.

5. Các tranh chấp khác về lao động, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự quy định những "yêu cầu về lao động" thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gồm:

1. Yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu.

2. Yêu cầu xét tính hợp pháp của cuộc đình công.

3. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định lao động của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định lao động của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.

4. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết lao động của Trọng tài nước ngoài.

5. Các yêu cầu khác về lao động, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.

Thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp trong giải quyết tranh chấp lao động

Như giới thiệu ở trên, có rất nhiều dạng tranh chấp lao động hay yêu cầu về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Tuy nhiên, mỗi cấp Toà (Toà án tỉnh và Toà án huyện) lại có thẩm quyền khác nhau trong việc thụ lý giải quyết.

Cụ thể tại Bộ luật tố tụng dân sự (2015) quy định như sau:

Điều 35. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân CẤP HUYỆN 

1. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:

c) Tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 của Bộ luật này.

2. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những yêu cầu sau đây:

d) Yêu cầu về lao động quy định tại khoản 1 và khoản 5 Điều 33 của Bộ luật này.

Điều 37. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân CẤP TỈNH 

1. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc sau đây:

a) Tranh chấp về lao động quy định Điều 32 của Bộ luật này, trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện.

b) Yêu cầu về lao động quy định tại Điều 33 của Bộ luật này, trừ những yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. 

Để dễ hiểu về những quy định nêu trên, quý vị chỉ cần nhớ như sau:

- Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết (giai đoạn sơ thẩm) hầu hết các loại tranh chấp và yêu cầu về lao động. Do vậy, khi có tranh chấp về lao động, quý vị cần nộp đơn đến TAND cấp huyện, nơi NSDLĐ có trụ sở hoặc nơi làm việc của quý vị.

- Chỉ khi nào Toà án cấp huyện không thụ lý đơn và có hướng dẫn, thì quý vị mới nộp đơn khởi kiện đến Toà án nhân dân cấp tỉnh.

- Trong khi đó, Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết phúc thẩm (xét xử lại theo đơn kháng cáo) hầu hết các tranh chấp và yêu cầu về lao động.

........



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét